Lại nói sau khi nghe Thinh tâu, Điền cả mừng bèn sai các tướng sửa sọan ngựa xe, điểm hơn ngìn binh mã, chọn ngày lành tháng tốt kéo quân đi. Đại tướng Nguyễn Giáp được cử làm tướng tiên phong. Lại nói, Giáp vón người sịnh hạ miền Duyên Hải- Hải Phòng, tướng mạo khôi ngô, tính khí hiền lành, dáng người nho sĩ. Thuở nhỏ giáp thường bị bọn trẻ trâu trong làng bắt nạt, làm cho bố mẹ rất phiền lòng. Một hôm nằm mơ Giáp thấy sao Văn Xương sa xuống nóc nhà. Quả nhiên sáng hôm sau có một nốt ruồi dỏ mọc ngay bên cạnh huyệt đan điền. Dân làng biết đó là quý tướng, bèn khyên bố mẹ Giáp cho Giáp lên kinh kỳ theo thầy học đạo. Quả nhiên sau này Giáp làm quan to, lại là người có đức độ nên được ba quân mến phục, mà Điền cũng rất tin dùng.
Thống lĩnh trung quân là mưu sĩ Giang Công Thịnh, người xứ Thái Bình vốn đọc rỗng hiểu sâu, lại có tài uốn ba tấc lưỡi, nghĩ ra nhiều mẹo mực, thích xử thế công việc theo cách nghĩ của ngươi tàu. Tuy chức tước không to, chỉ là mưu sí, nhưng Thịnh thường góp tay chèo lái công việc trong triều khiến cho lắm kẻ phải đem lòng vị nể.
Thống lĩnh hậu quân là quan hành chính Trần Hoạt, chuyên lo ngựa xe, lương thảo. Việc chuẩn bị chưa xong thì bống đâu bão lớn đổ về, người ngữa, lợn gà, thương vong vô kể, đồn lũy tan hoang, nên khi vừa tan cơn bão Điền vội lệnh cho Giáp dẫn quân đi. Bữa ấy mưa to, kẻ ở người đi tiễn nhau dài hàng hàng mấy dặm. Nói về buổi tiễn đưa hôm ấy, người đời sau có thơ rằng:
“Hành trang sắp đặt gọn gàng
Mối sầu xẻ nửa dặm đàng chia hai
Buồn trông Xuân Thủy quê người
Nhà siêu vach nát, rã rời lau thưa
Ngoài trời lác đác rơi mưa
Ngổn ngang cây đổ lá xơ xác vàng”
Giáp kéo đại quan tứoi phà Lạc Quần thì trơi vừa tối, quân lính sửa sọan bắc cầu qua sông thì bỗng đâu sóng gió nổi lên, mây kéo đầy trời. Trên mặt nước có rất nhiều hình người dắt tay nhau nhảy múa, tiếng kêu khóc vang rền cả một khúc sông. Giấp thất kinh, vội xuống ngựa hỏi một cụ già mới hay rằng: Tại khúc sông này trong trận huyết chiến năm xưa có nhiều người bị chết oan dưới hòn tên mũi đạn. Vì thế, chiều chiều khi vàng mặt trời, các oan hồn thường hiện lên quấy nhiễu. Giáp thấy vậy bèn gội đầu tắm rửa bằng nước lá thơm, lại sai lập một đàn tràng bên vờ sông rồi đập đầu xuống đất tế.
Tế rằng “Than ôi!
Trời thẳm đất dày, gió mưa sùi sụt.
Tấm lòng thương tiếc, tưởng nhớ vong hồn.
Nhớ các quan xưa!
Trí rộng tài cao, hết lòng giúp nước, một gánh quan hà giữa đường lâm nạn
Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh
Sống thờ vua, chết cũng thờ vua, nào đợi gươm hùm treo mộ
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương.
Vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Từ đây đất vàng một nấm, bão táp mưa sa, ngàn năm không người thăm viếng.
Giáp tôi thành khẩn, có chút lễ thường, kính biếu các ngài, dám mong soi sét
Than ôi!
Thượng hưởng!
Đọan sai ném 49 thủ lợn xuống lòng sông. Quả nhiên chỉ một lúc sau mặt sông phẳng lặng như tờ, mây đen tan hết. Các hồn ma bóng quỷ cũng theo chiều gió mà tan đi, người ngựa qua sông rất an toàn. Khi kéo quân tới bờ sông Nhị Hà thì trời sẩm tối, Giáp cho quân dừng lại thổi nấu ven sông.
Sáng sớm hôm sau, vào độ canh 5 bỗng đâu có một cơn gió mạnh thổi lên làm gãy lá cờ suy trung tâm. Đám trẻ bán táo bên cầu lại dắt tay nhau mà hát:
“Gió hắt hưu nước sông Nhị lạng tê
Tướng sĩ đi trận mong chi ngày về”
Tiếng hát thật buồn làm não lòng quân sĩ. Tướng tâm phúc cuả Điền là Chí Hiếu bấm độn biết ngay là điểm gở bèn bẩm với Điền rằng: “Đại vương kéo quân ra Hải Dương thật hợp ý trời, song thần e đường sá xa xôi lại chưa xây xong đồn lũy khó lòng mà giữ được. Chi bằng ta hãy tạm rút về Xuân Thủy để tích thêm lương thảo, một vài năm nữa hãy kéo quân đi cũng chẳng vội gì”. Điền nghe xong giận lắm mắng Hiếu rằng: Ta thương nghe Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ, Thôi Tử cắt thịt đùi nấu cháo cho vua, sách lại dạy rằng: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (nghĩa là vua bảo chết thần chết, thần không chết không trung...). Người xưa còn như vậy, nay sao nhà ngươi không noi theo gương cổ nhân, còn khuyên can ta rút quân, làm nản lòng quân sĩ? Đọan quát võ sĩ lôi Hiếu ra chém. Ba quân xúm lại can mãi Điền mới tha cho, nhưng cũng bắt Hiếu lưu đày ra ngoài Quán Toan- Chùa Vẽ.
Qủa nhiên theo như điềm báo, ra tới Hải Dương một tuần mà Điền vẫn loay hoay chưa tìm được nới đóng quân hạ trại. Phần thì không hợp thủy thổ, phần thì đường sá xa xôi không vân chuyển được lương thảo khiến cho Điền phải lệnh rút quân về. Trên đường rút chạy, xe cộ hỏng hóc không biết bao nhiêu mà kể, người ngựa đâu ốm rất nhiều. Từ đó trở đi, đời sống dân tình càng thêm khốn khổ, quân sĩ càng mất lòng tin ở Nguyễn Điền. Thấy vậy Điền bèn cho triệu tập đông đủ ba quân, áo mũ chỉnh tề rồi tế ngựa ra dưới cờ mà truyền hịch:
Hỡi ba quân!
Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời lọan lạc, lớn lên gặp buổi gian nan, thấy bọn tiêu cực đi lại nghênh ngang ngòai đuờng, lấy cớ lắm tiền mà sỉ mắng người nghèo, đem thân ngu dốt mà bắt nạt mấy thằng kỹ thuật. Lại mượn cớ nóng nực mà đòi tủ lạnh, bịp bợm dân đen mà vơ vét quạt trần. Của công ty có hạn mà lòng tham của chúng khôn cùng, thật khác nào mang thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau?
Ta thường cắt bữa cơm trưa, bỏ ăn suất sáng, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức vì chưa tìm ra được mỏ. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài thực địa, ngàn xác này gói trong báo cáo, ta cũng cam lòng. Nay các người ở cùng ta nghiên cứu dầu khí đã lâu ngày, không có ngựa thì ta cho xe, đi công tác ta cho phụ cấp, thăm dò trên bộ ta cho mìn, thăm dò dưới biển ta cho tàuthủy. Lúc bị sự cố thì cùng nhau sống chết, lúc có tiền thương thì lại cùng nhau vui cười. cách đối đãi so với vương Công Kiên cốt đãi Ngột Lung ngày trước phỏng có kém gì.
Nay các ngươi nhìn Tổng Cục ngày càng thu hẹp mà không biết lo, thấy lái xe xem thường dân kỹ thuật mà không biết thẹn, học nước ngòai về mà sống ở Xuân Thủy mà không biết tức, chỉ lấy việc đánh cờ, đi quán làm vui, lấy việc mua xổ số làm trò tiêu khiển, hoặc ham lợn gà mà quên việc đọc sách, hoặc lo quấn thuốc mà quên việc can in.
Nếu mai đây quân Liên Doanh tràn ra, thì tàu Bình Minh của ông Hậu địch sao được với tàu Pôisk của địch, can mắm tép của ông Uy tuy đỏ cũng không địch được với thịt hộp của quân thù. Thuốc cuộn của bà Thi tuy ngon cũng không làm địch say mà chết, đàn lợn của ông Hoa tuy đẹp cũng không làm cho địch thất kinh. Lúc bấy giờ ta cùng các người sẽ bị cách chức, dau xót biết chừng nào. Chẳng những lợi nhuận quý tư của ta không còn mà tiền thưởng quý ba của các người cũng mất. Cơm chiều xong, dẫu các ngươi có muốn rong chơi tán gái, phỏng có được ru? Rồi mai đây, con cháu sẽ cười chúng ta rằng gần 20 năm hao tiền tốn của mà không tìm ra được một giọt dầu. Tiếng dơ khôn rửa, tiếng xấu còn lưu, há còn mặt nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra hịch này để các ngươi biết bụng ta”.
Thế mới thực là:
Hịch dầu khí nức lòng tướng sĩ
Mộng Hải Dương liệu mất hay còn”
Không biết Nguyễn Điền có kéo quân ra Hải Dương một lần nữa hay không, xem hồi sau sẽ hiểu.