Lại nói người đó là Cao Tất Toại, tên thật là Tôn Thất Toại, vốn dòng dõi cháu 10 đời của quan đại thần Tôn Thất Thuyết khi xưa từng thảo chiếu Cần vương giúp vua Hàm Nghi đánh Pháp. Thuở nhỏ Toại theo học một ông thầy họ Cao được thầy quý mến như con đẻ nên cho phép đổi theo họ của thày. Từ đó Toại mới có họ là Cao. Tọai vốn xấu trai, hình dung cổ quái, nhưng đọc rộng biết nhiều, thạo nghề phù thủy, xem tướng cho người không sai lấy một li, lại có tài ứng đối, nên rất được Cư tin dùng. Tuy không sinh hạ ở miền Vĩnh Bảo nhưng Toại lại nghiện thuốc lào. Sáng ra khi gà vừa gáy là Toại hút liền ba mồi thuốc, bữa sáng như vậy kể đã xong. Những lúc Cư gọi lên hỏi kế sách Toại cũng không quên mang theo ống điếu cày. Khi gặp việc khó khăn hay việc quân nan giải, Toại bèn ngửa mặt lên trời lấy hơi bắn liền mấy mươi điếu thuốc. Tinh thần bỗng trở nên sáng suốt lạ thường, miệng phán như thánh sống, tay chém không khí vù vù khiến trăm quan muôn phần vị nể. Khi đi khảo sát ngoài thực địa Toại thường xắn quần móng lợn, ống thấp ống cao, tay cầm theo điếu cày cùng một bịch thuốc đủ cho người thường dùng trong cả tháng. Tuy tướng mạo có vẻ xuề xòa nhưng Toại lại rất tinh thông vạn vật. cả một vùng duyên hải Thái Bình, không có đám cưới đám hỏi, cất nhà nào mà không mời Toại tới xem ngày giờ hướng đất. Tất cả những đám này về sau đều con cháu đầy đàn, tiến chức thăng quan, suốt đời phú quý. Cứ tài ấy mà suy thì Toại phải dự vào hàng khanh tướng của triều đình. Hiềm vì Toại tính khí ngang tàng, suốt đời không phục tài ai, lại hay khích bác các quan trong triều, kể cả đám cô chiêu cậu ấm của Hoàng gia nên Toại không được triều đình cất nhắc. Mãi đến khi tuổi đã xế chiều, lông mi đã bạc hết Toại mới được bổ nhiệm tả tướng quân mà về sau gọi là chức Trưởng phòng. Tiếc cho một đời tài hoa mà không gặp vận, âu đó cũng là căn nguyên của hai chữ đọan trường. Bữa ấy thấy Cư bỏ cơm ăn, thuốc bỏ hút, Toại liền bẩm với Cư rằng: “ Thần xem Kinh Thi thấy nói phía Bắc An Nam không đầy vạn dặm có giống người mắt xanh mũi lõ, lắm của nhiều tiền, lại giỏi nghề kiếm tìm dầu khí. Giống người này mình cao tám thước, ngồi kín cả một xe, lại nói tiếng xì xồ, líu ríu như chim khiến dân An Nam ta ít người hiểu được. Nay đại vương nên cấp cho họ ít lương bổng thật cao để họ hết lòng giúp đỡ. Lại nên động viên những kẻ trí giả vương trong vùng cố gắng mà học hỏi hoặc đánh cắp lấy những bí quyết của ngoại bang thì nghiệp lớn của đại vương chả mấy chốc mà thành, lại tránh cho trăm họ cảnh binh đao, công ấy không mấy đời có được. Cư nghe xong mừng lắm, bèn cấp cho các đạo sĩ ngoại bang xe tốt, ngựa khỏe, nhà cửa tiện nghi sang trọng nhất vùng. Lại sức cho ba quân phải tìm mọi cách mà học lấy bí quyết của ngoại bang. Phàm những kẻ được lòng ngoại bang hoặc họ được cấp chứng chỉ thì dù cho chưa có tiến chức, thăng quan nhưng lương bổng cũng được tăng vài bậc. Còn kẻ làm phật ý ngoại bang thì kể như vĩnh viễn không còn cơ hội thành người, chỉ có một con đường về quê lấy đít trâu làm thước ngắm.
Đám ngoại bang dạy cho quân của Cư dùng các ống sắt nối với nhau rồi cắm sâu xuống đất để hút lấy vàng đen, lại dạy ba quân cách dùng bóng đèn treo ngược thắp sáng cả một vùng. Cũng vì có chính sách ấy mà quân của Cư mạnh lên trông thấy, đã lăm le tính chuyện chinh phạt để mở rộng biên cương Đắc Hòai ở mạn hưng Yên, Nguyễn Điền ở miền Xuân Thủy thấy vậy cả sợ cũng vội vàng làm theo kế sách của Cư.
Vào năm Kiến An thứ 18, Điền lên ngôi vua, lấy hiệu là giám đốc, để an lòng dân mỗi tháng Điền cho xe chở tướng sĩ thăm quê hương xứ sở. Điền lại trích công quỹ thưởng cho ba quân, vì thế mọi người vui vẻ làm ăn. Suốt mấy năm liền, cả một vùng Xuân Thủy- Hà Nam sóng yên bể lặng.
Bấy giờ ở đất An Nam có nhóm sĩ phu khăn gói lên tận Mỏ Chè ở vùng rừng núi Thái Nguyên theo thầy học đạo. Sau năm năm sôi kinh nấu sử họ đã học được các phép lạ về địa lý, thiên văn, giỏi nghề đo đạc. Nghe nói ở vùng Xuân Thủy có Nguyễn Điền là đấng anh hào dùng người hiền chiêu kỷ sĩ, họ bèn rủ nhau xin gia nhập doanh trại của Điền, những mong được thi thố sức mình như thời vua Nghiêu, vua Thuấn xưa kia. Nhưng chẳng được bao lâu thì trong triều sinh biến, các tướng không lo việc nước chỉ mưu đục khóet của dân. Đời sống mọi người vô cừng cơ cực, tiếng kêu oan khóc khắp nơi, nhưng không thấu tới triều đình. Trộm cắp xuất hiện như rươi. Kẻ ở người đi, nhân tâm ly tán, mọi người chỉ chờ có cơ hội tốt để trốn khỏi doạnh trại của Điền. Tướng tài như Nguyễn Lộc thì bỏ Điền về ẩn với vợ con ở vùng Nhã Nam- Hà Bắc, hổ tướng Phạm Dương có gan chống lại triều đình cũng xúyt bị đưa ra chịu tội phải vội vã trốn về với Đắc Hoài ở mạn Hưng Yên. Các tướng như Trần Hòa, Nguyễn Xăng cũng treo ấn từ quan để xin về Tân Cầu tăng gia nuôi lợn.
Nghe theo lời quan xiểm nịnh, Điền lại bạc đãi cả với nhóm sĩ phu mới ở Thái Nguyên về. Mọi người chỉ còn biết ngửa mặt lên trời cùng nhau than thở, tiếc cho những năm kinh sử, sách đèn. Trong số các sĩ phu ấy có Phạm Tú là người sinh ra ở vùng Vĩnh Bảo- Hải Phòng, đất ấy nổi tiếng từ thời Mã Viện khi xưa, vì có thuốc lào ngon làm đồ cúng viếng lại là nơi văn vật, trẻ con mới lên ba đã thuộc sấm của Trạng Trình. Tú có tài học thuộc, nhớ lâu biết nhiều truyện từ thời Xuân Thu- Chiến Quốc, đi bảy bước làm xong một bài thơ, nên đuợc bổ nhiệm làm quan ngự sử ở trong triều. Cảm thương đồng đội Tú đã ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“ Hỡi ôi! Quyết định ký rồi, lòng người trời tỏ
Gần 5 năm dày công bút mực, chưa biết tấm lòng xanh đỏ ra sao
Bị bật sới xuống đây, tin buồn ấy tiếng nghe như sét đánh
Nhớ khi xưa:
Đêm thức tàn canh, chăm lo đọc sách, lo lúc vào thi chỉ mong thày gặt
Luộc sắn, luộc mì, lật giường, cậy giắt, tay vốn quen làm
Giật tranh, giật mái, đốt quần cổng trường, mặt ta từng ngó
Bữa thấy đàn anh ra công tác, nghĩ cũng hay hay
Ngày nghe thấy nói thưởng nhiều, cũng muốn đi xuống thử.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải đam mê công việc, theo đòi để lấy tiếng thơm
Chẳng qua vì không chốn nương thân, bất đắc dĩ phải về đây cho qua chuyện
Nào ai đòi, ai bắt, gắng mà theo cho kịp bạn bè.
Chẳng cần tiếng Nhật, tiếng Tây, thân hèn kém mong chi thứ ấy
Ngòai cạt có một manh áo bạt, nào đợi mang găng tốt ủng bền
Trong tay cầm một cuộn màn chăn, không cần chiếu dẫu đêm nay giá rét
Thổi cơm rút trộm tranh lá mía, mỗi bữa ăn phải mượn nồi xoong.
Ba tên trùm một chiếc chăn bông, cũng gắng sống hết mùa đông năm nọ
Không mặc không diện, có thứ gì bán sạch
Rượu chè suốt sáng cho vơi nỗi lo toan
Nào sợ hàng năm có thưởng nọ thưởng kia
Thứ bảy ta về, liều mình như chẳng có
Kẻ xin đi, người chối ở, làm cho trương phó phòng lắm lúc đầu đau.
Bọn hò trước, lõ ó sau, lúc họp hàng quý bình bầu xét thưởng
Những mưu việc lớn không thành, biết đâu sức tàn lực kiệt
Ôi thôi thôi! năm đây đợi đi Nga không đến lượt
Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm
Ngồi nghe Tây họ nói xì xầm, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ
Đau đớn thay mỗi đợt bình xét thưởng, phận mình đây sao mãi cứ “C” hoài
Não nùng thay vợ yếu đợi chồng về
Không có lấy một đồng xu dính túi
Nghĩ khi xưa lúc còn đi học: ngày ngày ăn sắn luộc mà vui
Nhìn lại bạn bè, lòng lại mơ về Trường Mỏ
Kỹ sư làm chi 300 đồng bạc, lo tiền ăn, lo áo mặc, nghĩ lại thêm buồn
Kỹ sư làm chi chỉ thấy thiếu tiền, chia rượu lặt gặm bánh mỳ nghe càng thêm khổ
Thà trước mà đừng ham đọc sách đi về chạy chợ cũng vinh
Hơn là học tiếng Nhật, tiếng Tây ở mãi nơi đây rất khổ.
Đất Xuân Thủy xa xôi mờ mịt, thân nằm đây nhưng dạ nhớ đô thành
Thương vì hậu thế mai sau, nên cố gắng gửi mấy lời chúc lại”
Vì bài văn tế ấy, người đời sau có thơ khen Phạm Tú rằng:
“ Phạm Tú sinh ra trên đất thuốc lào
Tuổi trẻ nhưng mà có chí cao
Văn tế tỏ lòng thương đồng đội
Ngàn năm nhớ mãi bậc anh hào”
Trong triều đình bấy giò có Giang Thịnh là kẻ đa mưu, bấy lâu vẫn được Điền dùng làm mưu sĩ. Thấy vận nước ngã nghiêng, Thịnh bèn làm sớ tâu với Điền rằng: “Đại vương đóng quân ở đất Xuân Thủy này, tuy lắm cá nhiều tôm, mênh mông sông nước, lau sậy um tùm, địa thế vô cùng hiểm yếu. Nhưng đất này nơi quần ngư tranh thực, lại bất lợi về mặt giao thông. Nếu nay mai quân của Liên Doanh theo đuờng biển từ phía Nam kéo ra chiếm lấy một vùng Ba Lạt, quân của Ngọc Cư từ Thái Bình theo đường đò mộ đaok tiến sang, còn quân của Đắc Hoài vượt qua phà Triều Dương mà chiếm lấy cầu treo Nam Định, bịt con đường độc đạo xuống đây, lúc đó e rằng đại vương giở tay không kịp, nghiệp lớn của đại vương chỉ chốc mà tiêu tan. Chi bằng ta hãy kéo quân ra chiếm lấy khách sạn Hải Dương tiện bến tàu xe, đất rộng người đông tha hồ mở mang bờ cõi. Lại có thể liên kết với tướng Đỗ Hậu ở Hải Phòng tạo thành thế chân vạc, đầu đuối có thể ứng cứu được nhau, thì dẫu Đắc Hoài có hợp tác với Ngọc Cư đã dễ gì phá được. Việc gấp lắm rồi xin đại vương hãy mau mau quyết định. Điền nghe Thịnh tâu xong chỉ ngửa mặt lên trời cưới ngất, rồi vẫy tay truyền cho Thịnh lui ra. Chua biết ý của Điền ra sao, xem hồi sau mới hiểu