Lại nói sau khi đại bại ở Hải Dương, mọi người càng mất lòng tin ở Điền, tướng lĩnh dao động, sĩ tốt hoang mang, kẻ ở người đi, nhân tâm ly tán. Thêm vào đó, bọn giặc cỏ ở vùng duyên hải bẫi Đồ Sơn lại nổi lên quấy nhiễu, khiến cho Điền phải cử thêm bộ tướng là Alikha ra cùng Đỗ Hậu bàn mưu giết giặc, giữa lúc việc nước ngổn ngang lại có tin: “ Mưu sĩ của Đắc Hoài là Bàng Thống, nội có một ngày đếm đã chiếm xong vùng Thành Công- Giảng Võ. Thống lại sai sĩ tốt ngựa khỏe lên tận miền Trung du chở gỗ tốt về cất nhà xây thành đắp lũy tính kế lâu dài. Thế của Thống như trẻ tre khiến chúng thần rất lấy làm lo lắng.
Lại nói Bàng Thống khi xưa đã từng cầm quân trăm vạn đánh dẹp trọn vùng Kinh Bắc. Vốn xuất thân là thầy địa lý nhưng Thống nổi tiếng là người đức độ, có tài thu phục nhân tâm. Thuở còn hàn vi theo thầy học đạo Thống được thầy yêu mến dạy cho các bí quyết của 2 cuốn ”Thái ất thần kinh” và “Âm dương vạn vật” nên Thống hiểu được các lẽ hơn thiệt ở đời, giỏi nghề địa lý thiên văn, có tài nhìn trên mặt đất mà biết được nhiều việc âm phủ. Về sau Thống đem binh mã về với Đắc Hoài. Mấy chục năm liền hùng cứ một vùng thị xã Hưng Yên. Sau vì thấy Hưng Yên thông thương cách trở, mới bàn với Đắc Hoài chiếm lấy Thành Công để tính chuyện lâu dài. Vì thế người đời sau có thơ khen Thống rằng:
“ Bàng Thống tiên sinh lắm mẹo hay
Địa tầng nghiền ngẫm suốt đêm ngày
Lại giỏi dụng binh tài thao lược
Giảng Võ – Thành Công chiếm được ngay”
Nghe chúng tâu vậy Điền vội thất kinh bèn gọi Giang Thịnh vào hỏi han kế sách. Thịnh Tâu: “Kẻ bầy tôi nay được tin: lâu nay bọn thủy quái ở Biển Đông thuờng hiện về quấy nhiễu làm cho tàu Bình Minh mấy phen mắc cạn ở đảo Cát Bà. Quan đại thần Trần Thụ lại sinh thêm con gái thứ ba khiến trong lòng buồn bực, chỉ thích rượu chè, không thiết gì tới việc quân nhung. Mà thế của Hoài thì đang mạnh lắm, Bàng Thống kia chiếm Hà Thành ắt có dụng ý chi đây. Tướng của Ngọc Cư là Trần Hồi cũng đã chiếm xong hai nhánh nâng Khóai Châu- Tiền Hải, lại đang lăm le thôn tính nốt vùng vát nhọn ở Vĩnh Bảo – Đông Quan. Nếu họ kéo quan tắt qua Vũ Tiên sang đấy đánh úp thì Xuân Thủy, Hải Phòng đầu đuôi không ứng cứu được nhau, nghiệp lớn của đại vương e khó lòng giữ được. Chi bằng ta hãy cắt cho họ một phần đất để cầu hòa, tĩnh dưỡng sức dân lại có thời gian mà sửa sang đồn lũy”.
Nghe Thịnh tâu xong Điền bèn ngửa mặt về phương Tốn mà khóc rằng: “Mộng chiếm Hải Dương đã không thành giờ lại cắt đất cho địch thì bao giờ thu phục được giang sơn”. Người đời sau có thơ rằng:
“ Mộng chiến Hải Dương đã không thành
Tổn hao công sức đám dân lành
Cắt đất cầu hòa dân bớt khổ
Can gì phải khóc với trời xanh”
Nhưng cực chẳng đã Điền phải nghe theo, bèn sai người thân tín mang thư đi để cầu hòa. Tiếp đựoc thư Điền, Ngọc Cư và Đắc Hoài mừng lắm, bèn cử các tướng của mình theo ngày giờ đã hẹn trong thư tới Xuân Thủy cùng Điền thương nghị. Trong số các tướng chỉ có Trọng Cán là người lão luyện việc quân. Cán khi xưa xuất thân từ thầy địa lý, biết xem long mạch lại có tài quấn thuốc ngon nổi tiếng một vùng, người đời sau có thơ khen Cán rằng:
“Khen anh Trọng Cán lắm tài sao
Thuốc cuộn anh làm bán giá cao
Thế mà anh vẫn mê kiến tạo
Địa lũy mũi nhô với địa hào”
Sau một ngày thương nghị, Điền đã đồng ý trao cho Đắc Hoài tấm bản đồ Khóai Châu- Kim Động. Lại cho Ngọc Cư một vùng từ Phượng Ngãi tới Kiến Xuơng. Sau bữa đại tiệc, các tướng của Đắc Hoài và Ngọc Cư lên ngựa xe vui vẻ ra về, chỉ có Nguyễn Điền cũng các hạ bộ của mình vẫn ngồi bàn việc lớn.
Ngồi trên ngai vàng, Nguyễn Điền châu mày mà phán: “từ ngày tướng Giáp đại bại ở Hải Dương, trẫm thấy trong lòng buồn bực không yên, nay lại phải cắt đất cầu hòa khiến trẫm càng thêm lo lắng. Chỉ e mất nốt vùng Xuân Thủy thì trẫm và các khanh không còn đất mà gửi nắm xương tàn. Vậy các khanh có kế gì hãy giúp trẫm”.
Mọi người nhìn nhau không ai nghĩ được kế gì, thì quan đại thần Trần Thụ bỗng nói to lên rằng: “Tướng quân Trí Liễn khi xưa có để lại một kế này có thể phá tan giặc dữ”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm và cùng giục Thụ nói ngay.
Lại nói Trí Liễn vốn hào kiệt sinh hạ ở miền Thanh Hóa, nhà dựa lưng vào dãy Hoành Sơn, phía tả cách Hàn Rồng không đầy nửa dặm, phía hữu quay ra sông Mã. Thật là danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình, khí thiêng sông núi quần tụ nơi đây. Ngay từ thuở nhỏ Liễn đã nổi tiếng vì tính khí ngang tàng, cầm đầu lũ trẻ trong làng vượt sông Mã như trở bàn tay. Một hôm có thầy phù thủy người Tàu ghé vào làng dò tìm long mạch, thấy Trí Liễn là người khí khái lại có tướng mạo khôi ngô, đã đóan rằng sau này Liễn không làm tới Bá Vương thì cũng dự vào hàng công hầu khanh tướng. Quả nhiên len kinh kỳ theo học được vài năm Liễn đã nổi tiếng là người có tài kinh bang tế thế, miệng nói thực thực hư hư, biến hóa khôn lường, khiến người đời không hiểu được. Liễn đã từng nhiều phen bôn ba hải ngoại, học được nhiều phép lạ trong việc nổ mìn khúc xạ sử dụng địa lôi, từng cầm quân trăm vạn đánh dẹp một vùng từ Nam Định tới Kiến An. Sau đem binh mã về làm quan dưới trướng của Nguyễn Điền. Được thời gian, chán cảnh triều đình lục đục, Liễn bèn trao trả ấn tín cho Điền và nói rằng muốn đi chu du thiên hạ một phen, Điền nghe nói vậy cầm tay Liễn khóc mà rằng:
“Giữa lúc tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
Việc thu nổ thiếu kẻ đỡ đần
Khi phương án thiếu người bàn bạc
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ai giúp trẫm lúc gặp gian nan?”
Nhưng Điền nói thế nào Liễn cũng không nghe. Sau khi từ biệt bạn bè, Liễn bỏ lại gia quyến vợ con ở miền Xuân Thủy một mình tế ngựa ra đi. Mọi người tiễn Liễn tới bờ sông Nhị Hà, nét mặt ai cũng buồn rầu như thái tử nước Yên tiễn Kinh Kha đến bên bờ sông Dịch. Tới bờ sông Liễn rút ra một gói nhỏ bảo với Thụ rằng: “Cũng chỉ vì việc nước tôi phải ra đi, khi nào quốc gia nguy biến thì hãy mở gói ra, mẹo mực trong này đã ghi đủ cả. Cứ như thế, như thế mà làm”. Nhìn bờ sông mờ mịt, Liễn ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“Những tưởng đường đời phẳng lặng, gió đàn vương thuận nẻo, tha hồ xe ngựa ngênh ngang. Nào ngờ thế cuộc xoay vần, lận đận bước công danh, nghĩ vận nước càng ngao ngán nỗi”, đọan tế ngựa ra đi. Mọi người nghe xong cảm động vô cùng, bá quan đầm đìa nước mắt.
Thụ kể tới đây bèn rút túi mở cẩm nang ra thì chỉ thấy một hàng chữ vàng ghi trên giấy lụa: “Đồ Sơn nhất đái, khả dĩ vãn đại dung thân”, tức là “ Đằng đằng một dải Đồ Sơn, có thể dung thân muôn đời”.
Vì thế người đời sau có thơ khen Trí Liễn rằng:
“ Nửa đời tóc ngả màu sương
Vì đâu Liễn phải tìm đường vào Nam
Bỏ bao công việc chưa làm
Đời sau mới biết Liễn hao Hải Phòng
Mưu đồ chiếm cả biển Đông
Ra đi, Trí Liễn vẫn mong ngày về”
Chưa biết Nguyễn Điền quyết định ra sao, xem hồi sau sẽ hiểu