Giũa lúc Điền còn phân vân chưa quyết có nên theo kế của Trí Liễn hay không, thì có tin báo về: “Bộ tướng của Ngọc Cư đang đóng quân ở Lỗ khoan 76 thì bỗng đâu cả vùng gặp cơn tai biến, khí đốt phun lên dữ dội làm cho đất bằng tụt xuống thành một hố sâu, khiến cho ngựa xe bị chôn vùi, thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể”. Điền vội vàng cho quân dò la xem thực hư ra sao, thì được biết thêm rằng sau khi Trần Hồi kéo đám tàn quân ở Lỗ khoan 76 trở về ra mắt Ngọc Cư, Cư giận lắm toan rút gươm ra chém, ba quân xúm lại can mãi Cư mới tha cho, nhưng từ đó sinh lòng chán nản không thiết gì tới việc triều đình nữa.
Rồi bỗng một hôm, Cư không cả tạm biệt bạn bè, chỉ đem theo gia quyến và vài ba tay chân tin cậy bỏ đất Thái Bình vào ở với Liên doanh, quyền hành về tay Trương Thiên nắm giữ. Từ đó quan của Liên Doanh mạnh lên như đại bàng đuợc chấp thêm móng sắc.
Cũng vào năm đó, đất Bắc Hà sinh lọan lạc, các bên chỉ lo thôn tính lẫn nhau, chinh chiến liên miên hao của tốn tiền làm cho lòng dân ngao ngán. Thêm vào đó việc làm cũng hết, lương thưởng hàng năm đều bị cắt giảm một phần khiến đời sống dân tình ngày càng khốn khó. Người đời sau hẳn còn nhớ cái thuở: “Thơ- ông Danh, đanh- ông Thám, cám- ông Nghị, ký- ông Ninh, tình- ông Tuất, phất- ông Hồi, ngồi – ông Tráng, sang- Ông Phúc, tục- ông Chởi, tất tưởi- Phô Chi”.
Giữa lúc ấy lại có tin dữ báo về: “Quân của Liên doanh sắp kéo ra Bắc Bộ”. Triều đình bèn ra chiếu chỉ đòi các bên phải cử tướng tài về kinh kỳ họp bàn việc lớn. Tiếp được chiếu chỉ của Thiên triều. Điền vội cử Phạm Tú cùng Giang Thịnh về kinh thụ giáo.
Lại nói các tướng của Nguyễn Điền lâu nay vẫn đóng quân ở vùng Xuân Thủy, nước mặn đồng chua dân chúng quê mùa nên không hiểu mấy về chốn phồn hoa đô thị. Tới kinh đô chỉ thấy hỏa xa chạy ầm ầm, phố xá chi chít tựa bàn cờ cũng khiến các quan vô cùng kinh ngạc, có ý muốn lưu lại vài hôm cho thỏa cái chí tang bồng. Hai người hỏi thăm vào được đến nơi thì đã thấy mọi người hàng ngũ chỉnh tề, thượng thư Nguyễn Hiệp sửa sang áo mũ nói với bá quan: “ tháng thìn năm nay có 2 sao Thát sát, Đà La chiếu về phương Tốn báo hiệu chuyện chẳng lành. Bóng ngựa lưu tinh lại từ phương Nam sải vó phóng ra mang nhiều tin dữ. Quân của Liên Doanh đã tìm thấy vàng đen ở vùng Bạch Hổ, lại thôn tính các cấu tạo Cau , Dừa, chỉ ngày một ngày hai tất kéo quân ra Bắc Bộ. Quân của Liên doanh động binh phen này, ngòai Ngô Thương San là tay hào kiệt lại có Nguyễn Ngọc Cư ở Thái Bình chạy vào làm ám trợ, còn có các đạo sĩ người Nga có nhiều phép lạ, xông pha trăm trận như vào chỗ không người, chúng thần rất lấy làm lo lắng. Bây giờ chỉ có diệu kế của Văn Cự tiên sinh mới mong cứu được thần dân trăm họ.”
Cả gian điện im lặng vì lo lắng, không hiểu diệu kế đó là gì.
Lại nói Văn Cự tiên sinh vốn xuất thân từ thầy địa lý, nhưng đã nhiều năm xông pha trận mạc nên luồng lạch biển Đông thuộc như ao cá trong nhà. Sau khi dạy cho các quan bài binh bố trận miền Duyên Hải theo phép địa chấn địa tầng, tiên sinh chỉ lên tấm địa đồ Duyên Hải mà hỏi các quan rằng: “ Nếu nay mai quân Lien Doanh chia làm hai ngả, một cánh tiến theo sống Lồi rìa rồi tràn qua Phú Khánh chiếm lấy Đồ Sơn, cánh thứ hai đi tắt qua trũng biển Đông tràn qua đới nâng Hoàng Sa mà tiến vào miền Dinh Cơ, Nam Hải, thì lúc đó e rằng một địa hào Hà Nội không đủ chốn nương thân. Vậy các khanh đừng mắc cái sai lầm của Nước Ngu, nước Quắc khi xưa, xóa bỏ cừu thù, kết làm cái nghĩa môi răng cùng nhau tiến quân chiếm lấy bể Sông Hồng, rồi thừa cơ kéo vào Phú Khánh. Nơi đây mặt Nam dựa vào khối Kon Tum có núi non hiểm trở, Mặt Tây có vùng khâu sông Mã là vùng xung yếu thì lo gì mà không thắng được liên doanh?”. Các quan triều đình cho đó là diệu kế, nhưng còn e biển Đông có nhiều thủy quái lại song lớn gió to. Bỗng một tướng quát to lên rằng: “Thần tuy tuổi đã nhiều nhưng từng quen chinh chiến, muốn được báo đền ơn nước một phen. Nếu việc không thành xin dám đem đầu nộp dưới trướng”.
Mọi người quay lại mới biết người vừa nói họ Nguyễn tên Khuông, làm quan thái úy trong triều. Khuông vốn người sinh hạ ở mạn Hà Tây, thời trẻ từng khăn gói về kinh dùi mài kinh sử, Khuông vốn học rộng biết nhiều, nổi tiếng thông minh nên chưa đầy 4 năm đã học hết chữ thầy, được đặc cách phong làm quan trấn thủ, cầm quân thu phục một vùng từ Thái Thụy tới Quỳnh Côi. Sau trở về làm quan dưới trướng của Ngọc Cư. Khuông vốn có nhiều phép lạ trong việc liên kết địa tầng, nhưng tính cương trực không chịu được sự dèm pha của quân xiểm nịnh, nên được vài năm bèn bỏ Ngọc Cư mà bôn ba hải ngoại học cái lẽ thiệt hơn ở đời, rồi về triều viết binh thư cho ba quân tham khảo. Người đời có thơ rằng:
“Liên kết địa tầng lắm phép hay
Binh thư nghiền ngẫm suốt đêm ngày
Giữa lúc nước nhà cơn bĩ cực
Trung kiên vẫn giữ tấm lòng ngay.”
Đưa bàn tay gày guộc vuốt mái tóc đã điểm màu sương, lão tướng Nguyễn Khuông bừng bừng nét mặt, đưa mắt nhìn suốt hai hàng văn võ bá quan , mọi người bàng hoàng đứng lặng. Văn Cự tiên sinh từ trên bệ rồng bước xuống cảm động nắm chặt tay vị lão thần. Thống đốc Alikha người được mệnh danh là con cá kình vùng Duyên Hải cũng khẳng khái nói rằng: “ Làm tướng đem quân đánh chiếm Hải Phòng, phải được chết trên tàu Bình Minh, ném xác xuống biển cho cá mập ăn mới sướng”.
Người đời sau có thờ rằng:
“Nghe đồn có Nguyễn Văn Kha
Sáng về Xuân Thủy, tối ra Hải Phòng
Bao giờ Dầu Khí thành công
Thế gian sẽ đúc tượng đồng cho anh”.
Nghe Kha nói xong, một tướng rất giỏi là Trần Hồi, bộ tướng của Trương Thiên đập đầu xuống đất mà khóc rằng: “ Vẫn biết kéo quân ra biển Đông là diệu kế, hiềm một nỗi rằng suốt mấy chục năm qua lương bổng ba quân trong cả vào mấy lỗ khoan vùng Kiến Xương Tiền Hải. Nay bỏ đất ấy mà đi, muôn dân biết lấy gì mà sinh sống. Thần lại nghe nói ngoài biển sóng to gió lớn, chinh chiến như Alikha mà còn mấy phen để cho tàu mắc cạn. Nay chưa có thuyền lớn cảng to mà đã kéo quân ra biển Hải Phòng e không khỏi làm mồi cho cá dữ, thật là có tội với dân lành. Hạ thần chưa biết tính sao.”
Văn Cự nghe xong, thì cả cười, bèn rút long ngỗng dắt ở mang tai khoanh ngay mấy vòng trong trên tấm địa đồ miền Duyên Hải, lại trao cho Nguyễn Hiệp lá cờ tiết chế toàn quyền thống lĩnh ba quân, dặn dò mẹo mực cứ thế cứ thế ... mà làm. Thế mới rõ thực là:
“Hợp sức nhau thôn tính Hải Phòng
Làm cho thiên hạ mỏi mòn trông
Tướng tiên phong nếu dùng Nguyễn Hiệp
Việc lớn lo gì chẳng thành công”.
Không biết có bên nào kéo quân ra Hải Phòng hay không, xem hồi sau mới hiểu.