Lại nói về tướng vừa rút quân toan tự vẫn, mặc chiến bào, dáng người thấp bé, dân chúng trông xem ai hóa ra là Cường Binh. Sau khi dâng sớ khuyên can không nên chiếm Hải Phòng, Binh bị cắt chức chánh văn phòng và phải về làm việc dưới trướng của quan đại thần Trần Thụ. Được ít lâu sau, Binh lại đổi sang làm phụ tá cho Vũ Lư chuyên lo về ngựa xe cho đại quân rút chạy, Binh cả sợ, thức trắng đêm quên cả ăn uống, nghỉ ngơi mà BInh cũng chỉ lo được hơn chục ngựa u óat và mấy chục chiến xa. Các tướng lại giành nhau cướp lấy xe tốt, ngựa khỏe để chạy tháo thân, nên hầu hết ba quân phải vác hành trang của mình mà chạy bộ. Trong khi rút chạy người ngựa dẫm đạp lên nhau thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể. Sĩ tốt không ngớt lời óan trách Cường Binh, tiếng kêu khóc vang động cả góc trời. Thấy cảnh điêu linh, Binh thật đau lòng bèn rút gươm toan tự vẫn, bộ hạ của Binh xúm lại căn ngăn Binh mới nguôi đi. Nhưng từ đó không thích tới việc triều chính nữa, mấy phen toan treo ấn từ quan đặng rút về ở ẩn tại Hưng Yên, điền viên vui thú với vợ hiền.
Lại nói về Nguyễn Điền, sau khi kéo đại quân về vùng Cầu Tre-Vạn Mỹ, bèn sai cho quân ra sức xây thành đắp lũy để tính kế lâu dài. Một bữa Điền đang ngồi trong trướng thì sực có tin thám báo về rằng: “Nguyễn Đắc ở Thái Bình đã đóng xong thuyền lớn cáp to để chuẩn bị kéo quân ra tìm vàng đen ở ngoài biển cả. Đắc lại lên tận Jà Thành, vào cầu cứu Tử Kính tiên sinh mượn được hơn 100 quân giỏi nghề sông nước, xông pha nơi đầu sóng ngọn gió như vào chỗ không người.
Điền nghe nói thất kinh chưa biết định liệu ra sao thì lại tiếp thư của Đắc muốn cầu hòa và xin quân viện trợ: “ Đắc tôi lâu nay nằm mộng thấy ngoài biển cả có dấu hiệu vàng đen, nên đã mạo muội mua sắm thuyền lớn tàu to. Hiềm một nỗi binh sĩ không thuộc luồng lạch ở biển cả e không khỏi làm mồi cho cá giữ. Nay nếu được ngài hạ cố cho tàu Bình Minh dẫn đường thả phao giúp sức, giúp cho việc lớn sớm thành thì thật có phúc cho muôn dân và may cho Đắc tôi lắm. Kính thư”.
Điền xem xong mừng lắm, bèn mở tiệc khoản đãi sứ giả rồi một mặt cho họp các định thần lại để bàn việc lớn, mặt khác lại sai Phạm Tú, Vũ Nghiêm đi kinh lý Nam Phương, vào tận đất Vũng Tàu thụ giáo các đạo sĩ người Nga, học lấy phép thuật địa chất công trình để phòng khi có bất trắc. Khi nghe Điền muốn tìm người tài giúp nước, có kẻ thưa rằng: “Việc dẫn tàu thuyền đi trên biển cả thì không ai làm nổi ngoài quan giỏi nghề đo đạc Nguyễn Đức Uy.
Lại nói Uy vốn là người sinh ra ở mạn Trâu Quỳ- Bình Sinh, Uy vốn giỏi nghề đo đạc, ngắm tiêu. lại vốn tham việc buôn bán, lắm ruộng, nhiều vườn, lê táo quanh năm, nên người đời thường gọi là địa chủ Nguyễn Đức Uy. Vốn dĩ đẹp trai, lại là phong tình nên Uy được chị em đem lòng cảm mến. Nghe đồn thời trai trẻ Uy phải lòng nàng Kim Thi ở xứ Ninh Bình, nhà tựa lưng vào núi đá vôi, trước mặt trông ra dòng sông Mã, thật là danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình. Mùa xuân năm nọ hai người bàn nhau tới động Hương Sơn để vãn cảnh chùa, chẳng hiểu vì duyên cớ gì, cuối cùng Uy lại làm mặt giận không đi khiến cho nàng Kim Thi mất vui trong hội chùa năm ấy. Người đời có thơ trách Uy rằng:
“Thi đi Uy lại ở nhà
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm
Thà rằng đi cả cho xong
Cái dưa khỏi khú, khỏi thâm cái cà”.
Sau lần ấy Uy sinh lòng chán nản, khiến cho mới có mấy tháng mà tóc trên đầu ba phần đã bạc quá hai, mấy phen muốn lui về ở ẩn, vui cảnh vườn rau ao cá, bầy lợn đàn ong. Nay tuổi Uy đã nhiều, lại được Điền giao trọng trách khiến không khỏi phần ái ngại, nhưng rồi cũng quyết nghe theo. Chọn đúng ngày lành, Uy cùng Nguyễn Đắc giáp trụ sáng lòa đứng trên mũi tàu Bình Minh, dẫn theo xà lan B700 và tàu con thoi Bạch Hổ hùng dung tiến ra biển Đông.
Nhưng mới làm việc trên biển một ngày, thì bỗng nhiên ban đêm mây đen kéo đến mù trời, gió bấc thổi vè, biển Đông nổi sóng, bọt tung trắng xóa một vùng. Bao nhiêu cọc sắt đâm xuống biển đều bị sóng đánh dạt, làm cho tàu thuyền đứt cáp trôi dạt khắp nơi, ba quân nôn ọe nằm bất tỉnh trên tàu. Nguyễn Đắc thất kinh bèn hỏi vài tên lính già còn tỉnh táo xem sự cố ra sao. Chúng thưa rằng: “ Vào thời điểm chiến quốc có con gái vua Viêm Đế theo chồng đi dẹp lọan ở Nam Phương. Qua vùng biển Đông, họ gặp phải bão to nên thuyền bè đắm cả. Từ đó các oan hồn thường hiện về quấy nhiễu, gây mưa nổi sóng đánh chìm thuyền bè qua đây”. Đắn nghe theo lời tâu, bèn lấy bột mì nặn thành thủ lợn, đầu dê rồi ném xuống biển xanh làm đồ tế lễ. Quả nhiên, một lúc sau sóng gió dịu dần. Đắc vội nhìn quanh mặt biển thì không thấy bóng dáng tàu Bình Minh. Đóan rằng tàu BÌnh Minh đã bị thủy quái đánh chìm mất đêm qua, Đắc thương cảm vô cùng, đập đầu xuống xà thành xa lan mà khóc, nước mắt như mưa.
Tới đầu canh 5 thì trời lặng gó, biển Đông phẳng lặng như gương. Đắc vội hạ lệnh cho ba quân rút chạy thẳng vào hướng cảng Vật Cách – Quán Toan. Gần tới bờ, sĩ tốt vào bẩm với Đắc rằng: “Chẳng những tàu BÌnh Minh không bị đắm, mà đã bỏ mặc quân của Đắc rút chạy một mình. Các chiến binh của tàu đang đứng trên boong mà nhảy múa”. Đắc nửa tin, nửa ngờ, vội chạy ra xem hư thực ra làm sao. Sau một ngày đêm vật lộn với gió mưa, trông Đắc lúc này không được oai vệ như buổi ra quân. Dép đứt mất một bên, quần xắn móng lợn, mũ áo tả tơi. Khi nhìn sang tàu Bình Minh qủa thấy các chiến binh đang ngồi uống rượu, Đắc giận lắm, rút gươm chỉ thẳng sang Đức Uy – Đỗ Hậu mà mắng rằng: : Quân các ông toàn đồ sợ chết”. Vì thế đời sau có thơ khen rằng:
”Tung hoành ngang dọc giữa biển khơi
Dép đứt một bên mũ tả tơi
Khoan công trình giữa ngày mưa bão
Sà lan một phút chẳng chịu rời”.
Sau đó một thời gian, Nguyễn Điền lại giao tàu Bình Minh đi thả phao giúp Đắc, nhưng việc vẫn không thành khiến lòng vô cùng buồn bực sinh đau yếu luôn luôn. Một bữa Điền cho gọi lão tướng Alikha và Chí Hiếu đến mà rằng: “Trẫm lâu nay thấy trong người yếu lắm, muốn lui về tĩnh dưỡng. Hiềm vì con trẫm tài hèn đức mỏng không đủ sức gánh vác việc giang san, nay trẫm muốn truyền cho các khanh ngôi báu, chẳng hay các khanh nghĩ thế nào?”. Hai tướng nghe nói xong, cả sợ đập đầu xuống đất khóc mà rằng: “Hạ thần cắp giáo theo hầu đại vương từ thưở hàn vi, mấy chục năm qua ăn lộc của nhà Nguyễn đã nhiều. Tấm thân này dẫu nát với cỏ cây còn e không đền đáp đuợc ơn sâu, đâu dám sinh lòng làm phản”. Nguyễn Điền còn phân vân chưa quyết định thì có kẻ tâu rằng: “Tôi biết một người đủ đức đủ tài, cũng lại là tôn thần nhà Nguyễn, sao không tìm người ấy mà dùng? Người này tên Liệu, tự là Nguyễn Đăng, vón dòng dõi quan tri huyện vùng Thủ Đức. Liệu vốn mình cao tám thước, tướng mạo phương phi, trí dũng hơn người, từng nhiều phen bôn ba hải ngoại, mấylần ra Bắc vào Nam, tới đâu cũng được ba quân hết lòng yêu mến. Hiện Liệu đang đầu quân cho Đắc Hoài ở mạn Hưng Yên, nếu đại vương sai người có tài thuyết khách khiến cho Liệu bỏ Hoài về đây giúp sức, thì lo gì không khôi phục được giang sơn”. Điền nghe tâu xong bèn sai máy người có tài uốn ba tấc lưỡi, do Quan đông các đại học sĩ dẫn đầu mời cho được Liệu về bản doanh dự tiệc. Rựou đã ngà ngà Điền mới bảo Liệu rằng: “ Bấy lâu nay vẫn nghe tiếng tướng quân là người tài đức, lại là tôn thần nhà Nguyễn với nhau, xin chúc tướng quân một chén rựou thường gọi là mừng ngày hội ngộ. Giờ đây nứoc nhà trong cơn bĩ cực, tướng sĩ tranh quyền, muôn dân lầm than cơ cực. Nếu tướng quân về đây mà lên ngôi báu, khôi phục giang sơn thì thật là phúc cho nước nhà lắm đó”. Liệu nghe xong một mặt chối từ nhưng đám quan trong triều cũng cố hết sức thuyết phục nên Liệu cũng nghe theo. Vào thượng tuần tháng Tuất năm Bính Thìn, Điền trao cho danưg Liệu tấm hoàng bào, còn mình lui về làm quan tư vấn chuyên lo việc đạo cho ba quân (người đời sau gọi là bí thư Đảng ủy). Sau khi lên ngôi Liệu cho đổi niên hiệu thành năm Thái Bình thứ nhất, tuyên bố đại sá, ra chiếu chỉ phủ dụ ba quân rồi bắt tay vào sửa sang triều chính. Liệu phong Đỗ Hậu làm lại bộ thương thư thay cho CHí Hiếu đã về với Trương Thiên ở mạn Thái Bình. Liệu lại cho lập một đội kiêu binh chuyên lo điều hành sản xuất do Giang Thịnh đứng đầu. Phong Vũ Văn Minh làm thủy sư đô đốc toàn quyền thống lĩnh vùng Vật Cách- Quán Toan chỉ huy cánh quân đánh thủy. Lại phong Đỗ Vinh làm trưởng đoàn sản phụ (đời sau gọi là sản xuất phụ) hùng cứ mạn Tân Cầu. Vũ Chuyên được phong làm chỉ huy đoàn tàu buôn bán Bắc Nam. Đức Thụ được tấn phong làm trưởng đoàn phân tích quyền sinh quyền sát một vùng chợ Gạo, Hưng Yên. Tướng Giáp cũng được chuyển về phụ trách ngựa xe thay cho Cường Binh vè chốn Hưng Yên để vui thú với vợ hiền.
Liệu cho mở rộng buôn bán, tăng cường bang giao với các nước, cải thiện đời sống dân lành. Để an lòng dân, nhân dịp tết Đinh Mão cổ truyền Liệu ban cho sĩ tốt mỗi kẻ một trăm quan không kể sang hèn. Vì thế mọi người cùng vui chơi ca hát, an hưởng cái tết thái bình. Người đời sau có thờ rằng:
”Giơ vai gánh vác việc giang san
Chẳng ngại nhọc nhằn, việc gian nan
Trằng trọc năm canh lo việc nước
Chỉ mong sĩ tốt được an nhàn”.
Việc nước đã tạm yên Liệu lại muốn kéo quân ra tìm vàng đen ngoài biển cả. Vẫn hiềm vì chưa có sách nào trị được loại thủy quái nên đêm ngày ăn ngủ không yên. Giữa lúc ấy có kẻ tâu rằng: “Hạ thần xin hiến đại vương kế này chẳng những có thể phá tan loài thủy quái mà việc tiến quân ra biển cũng dễ như mở bàn tay. Thế mới thực là:
Một mẹo nhỏ phá tan thủy quái
Khiến ba quân đỡ phải gian nan
Chưa biết người ấy hiến kế gì xem hồi sau mới hiểu.